THUỐC CHỮA THOÁI HOÁ - THOÁT VỊ - GAI - PHONG TÊ THẤP - THẦN KINH TOẠ - HOẠI TỬ KHỚP
Do máu không cung cấp đủ dưỡng chất và oxy để nuôi xương, làm xương bị thoái hoá khô, xốp lên. Vôi thường bị ở các đốt sống cổ – đốt sống lưng và các khớp xương. • Người càng cao tuổi, do sự trao đổi chất giảm, thoái hoá các tế bào tăng, càng cao tuổi thoái hoá xương càng tăng. • Ở những người trẻ khi ngồi làm việc ở một chỗ, ít vận động: như công nhân, nhân viên văn phòng, các khớp xương ít được vận động, bị chèn ép, khí huyết lưu thông kém, các tế bào xương thiếu dần dinh dưỡng dẫn tới thoái hoá. • Các chất độc tố trong máu, các chất xơ vữa trong máu cũng tăng nhanh quá trình thoái hoá.
Gai đôi Gai đôi: là hiện tượng xương được đắp dày thêm ở các đầu khớp. • Khi ăn nhiều chất thịt, mỡ động vật, để tiêu hoá mật được tiết nhiều hơn. Lượng axít dư thừa sau tiêu hoá được trung hoà bởi lượng canxi dự trữ được lấy từ trong các xương do máu vận chuyển tới. Lượng canxi này được thận lọc, qua máu bù lại xuơng, từ thận bù đắp về. • Khi lượng canxi lùi về không đủ sẽ gây loãng xương. • Lượng canxi dư thừa, hoặc chế độ ăn dư canxi bảo hoà thận đào thải không hết tạo thành rác trong cơ thể. • Một số rác tập trung trong mật gây ra sỏi mật, tập trung trong thận gây ra sỏi thận. • Ăn không đủ chất, lao động mệt nhọc, ăn uống không điều độ dễ dẫn đến thoái hóa và gai đôi. Ở các đầu xương khi vận động sẽ tập trung nhiều các điện tích (+) (-) hút các canxi này làm xương dày thêm ra gọi là gai. Khi xương bị bất thường, rạn nứt xương, xương tự can ra thnàh các đầu gai. • Khi axít dư không được trung hoà, thận không đào thải hết lượng axít uric đọng lại sinh bệnh gút.
Xẹp đệm: là các khớp xương chèn sát vào đĩa đệm, do thoái hóa xương làm sự đàn hồi kém, do chấn động, sức nặng đè nén lên xương gây nên.
Thoát vị đĩa đệm đốt sống lưng chèn ép dây thần kinh gây đau
Thoát vị: thường do xẹp đệm, trượt đệm, đĩa đệm bị nén chặt phình thoát ra chèn vào tuỷ sống, bị ở cổ đau cứng cổ, váng đầu, tê bại tay, co rút ngón tay. Ở lưng đau cứng vùng lưng, lan xuống mông chân, nhão cơ, chuột rút, bị nặng teo cơ, bại liệt. Khi bị vôi hoá: đĩa đệm khô ráp, các khớp xương chạm vào nhau, lực ma sát gây đau. Thần kinh toạ: do vôi - gai - xẹp đệm - hẹp lổ ly hợp, thoát vị đĩa đệm, chèn, chạm vào rể dây thần kinh toạ sinh đau. • Bị ở cổ: đau lên vùng gáy, chèn mạch máu lên não, dây thần kinh lan từ đốt sống C2 đến C6 lan xuống vai, tới ngón tay. • Bị ở lưng: Từ đốt sống L1 đến L5 – S1, chèn đau chùm dây thần kinh đuôi ngựa đau lan xuống mông, lan xuống chân tới ngón chân. Khớp đau: có thể vôi, gai, mòn khớp, khô khớp, tràn dịch khớp, hoại tử khớp, viêm đa khớp, u xương, nứt khớp … Thấp khớp: khớp sưng, viêm đa khớp dạng thấp hay khớp tim đây là bệnh tự miễn cơ thể tự sinh ra chất chống lại cơ thể tác động lên hệ miễn dịch làm sức đề kháng giảm, khi có tác nhân kích thích như vi khuẩn, vi trìng, vi rút, nấm sẽ đau lên các khớp lúc đầu đau ít sau lan ra các khớp đầu, khớp tay, chân, gối hán, vai và lên cột sống, khi này thường sinh ra biến đổi xương khớp có thể làm ảnh hưởng tim làm tới suy tim. Đây là bệnh rất khó chữa, thời gian chữa lâu mới khỏi dần; khi uống thuốc và công thuốc làm đau. Xương khớp hoại tử: do vi khuẩn, vi trùng, vi rút làm xương khớp bị hoại tử, có thể bị thay khớp hay bị lệt. Gút Gút: do dư axít uric, chất bột urat đọng lại làm biến dạng khớp Chẩn đoán: Ngoài triệu chứng đau đặc trưng, chẩn đoán theo Đông y, còn được chẩn đoán bằng hình ảnh. chụp Xquang còn chụp cắt lớp, erai, cộng hưởng từ để xác định: trượt đệm, thoát vị, hẹp lổ li hợp, nứt gãy đĩa đệm, u xương, tổn thương bất thường trong xương. Thoát vị, hẹp lổ ly hợp đốt sống cổ: có thể làm liệt tay cứng cổ, bị ảnh hưởng não gây choáng do bị chèn ép tuỷ, mạch máu lưu thông lên não kém. Thoát vị đốt sống lưng ngoài đau tê dại chân có thể teo cơ, liệt chân. Hoại tử khớp có thể bị thay khớp hay liệt (phương pháp mổ thoát vị, mổ laze, mổ hở hay thay khớp ngoài để lại di chứng, thường vẫn bị đau sau mổ, được một thời gian nhiều người bị lại, nếu mổ lại tỉ lệ teo cơ và liệt cao mà vẫn bị đau, một số phải thay nẹp xương sống khi mổ một thời gian bị đau lại, khó chịu hơn trước khi mổ). Tôi đã chữa rất nhiều người khi chụp cắt lớp, cộng hưởng từ xác định là thoát vị đĩa đệm đốt sống cổ hoặc đốt sống lưng đã được bệnh viện chỉ định mổ, nhưng nhiều lý do không mổ trong đó có người đã bị teo cơ nặng, co rút liệt tay, chân không đi lại được và nhiều người sau khi mổ, thay đĩa đệm, bắn laze vẫn đau và thoát vị lại sau thời gian ngắn. Sau khi uống thuốc số 6 và số 3 một thời gian thường khoảng 2 đến 6 tháng, bị nặng có thể lâu hơn thì hết đau, tê, vận động đi lại bình thường, một số chụp lại phim đã hết thoát vị. Do khi uống thuốc hồi phục xương hết vôi hoá, đệm giữa các khớp giãn ra không bị chèn, đĩa đệm trở về vị trí ban đầu, dịch nhầy thoát ra tiêu đi. Tỷ lệ khỏi cao, ít trường hợp bị tái phát lại.
Phương pháp chữa: • Hồi phục vôi hoá xương đã khô bằng đưa dưỡng chất, oxy tới nuôi lại phần xương đã vôi hoá. • Hồi phục chất nhờn ở các khớp. • Loại trừ phần rác bám vào đầu xương gọi là gai đôi, đưa xương về vị trí ban đầu. • Bù đắp lượng canxi bị mất gây loãng xương. • Khi xương được hồi phục, khớp được hồi phục giãn ra làm hết xẹp đệm, tuỷ không bị chèn trở về vị trí ban đầu hết thoát vị.
Bài thuốc đáp ứng yêu cầu:
• Chất lưu dẫn: phải dẫn qua được phần xương khô vào được tế bào mô xương để hồi phục lại tế bào khô hoá vôi. Đây là phần chủ chốt, bí quyết của bài thuốc chữa vôi hoá. • Chất hồi phục: là các chất bổ âm, dương, khí huyết, tân dịch. • Chất bù đắp canxi, chất đào thải rác bám đầu xương. • Thuốc chống viêm tắc, lưu thông khí huyết. • Thuốc tan máu bầm, huyết khối, cholestron, mỡ máu, xơ vữa động mạch, tiêu mỡ.
Thuốc dùng để chữa:
• Thoái hoá, gai đôi, xẹp đệm, thoát vị đệm, viêm khớp, khô khớp, tràn dịch khớp, hoại tử xương, bệnh gut, viêm tắt tỉnh mạnh, tay biến mạch máu não. • Loãng xương, khô khớp, thoát vị đĩa đệm, hẹp lổ li hợp: uống thuốc số 6, số 3. • Thấp khớp: (khớp sưng, viêm đa khớp dạng thấp, khớp tim) uống thuốc số 6, số 4 và số 8 để chữa khớp, loại nấm virut. Nếu ảnh hưởng tim thì uống cùng thuốc số 16 để ổn định tim.
Các loại bệnh cần kết hợp thuốc mới khỏi
• Hoại tử khớp, viêm khớp: uống thuốc số 6, số 4 + số 8: loại vi khuẩn, vi rút, hồi phục xương khớp hoại tử. • Chữa bệnh gút: do dư axit uric. Uống thuốc số 6, số 8, số 4 và số 18 để chữa khớp và giải độc, loại bỏ axit uric, tăng chức năng thận • Chữa viêm tắc tĩnh mạch, xơ vữa động mạch, huyết khối trong máu, mỡ máu cao: chữa và phòng tai biến, nhủn não, viêm tắc tĩnh mạch, suy tim, giãn tĩnh mạch nông: cản trở máu xuống nuôi chân, giãn tĩnh mạch sâu gây cản trở, tắc mạch máu lên phổi, nội tạng, uống số 6 và số 18 • Hồi phục vận động sau tai biến, uống thuốc số 6, số 16, số 11 để giải cơ chống viêm tắt mạch máu, cục máu đông trong não và chữa huyết áp cao để phòng tai biến lại
Kiểm tra kết quả bằng triệu chứng, chẩn đoán Đông y, và bằng chụp phim, Xquang, cắt lớp, eari, cộng hưởng từ tại cơ sở chẩn đoán trước đó để so sánh phim. Xác định đã khỏi. Tôi đã chữa rất nhiều bệnh nhân (không dưới 10 ngàn người bị bệnh xương khớp này: có sổ lưu tên bệnh nhân). Nhiều người trong đó khi hết đau đã chụp lại phim hoặc erai, cộng hưởng từ xác định đã khỏi, không phát hiện còn vôi gai, thoát vị mà phim trước đó chụp phát hiện có.
Do sự lây lan nhanh của chủng mới tại tpHCM, lương y Hồ Kim Tuấn xin đưa ra phác đồ nâng cao sức đề kháng trong thời điểm này, điều trị di chứng sau covid (xét nghiệm đã âm tính), mong muốn góp phần...